This is a local cache of the webpage http://www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vongco/vongco.htm retrieved on June 13, 2006 at 9:53am, GMT-4 by The Encyclopedia of Vietnamese Music.

-Mạc Vũ, The Encyclopedia of Vietnamese Music
Vọng Cổ: Một Chút Lý Thuyết Căn Bản và Thực Hành
Lời Mở Ðầu: Bài viết này biên soạn bởi Dược Sĩ Lê Văn Thành trong phần lý thuyết căn bản và những quy luật cho sáu câu vọng cổ, cùng những ký âm theo nhạc tây phương. Dược Sĩ Trịnh-Nguyễn Ðàm-Giang soạn những thí dụ cho sáu câu vọng cổ. Dược Sĩ Mai Tâm dàn soạn, trình bày phần kỹ thuật graphic và âm thanh để mang bài viết này lên mạng lưới vi tính (internet).

Mời đọc Bài Giới Thiệu cuả Hồ Duy Thiện.

Cách đọc loạt bài này

 

1) Cách đọc thông thường: Các bạn có thể đọc từ đầu tới cuối như mọi bài viết khác với dàn bài theo thứ tự như sau.

2) Cách đọc để tập đàn: Thứ tự hơi khác một chút để được dể dàng hơn. Nên theo thứ tự sau đây:

  • Ðọc kỹ phần khái niệm, nhất là những phần viết toàn CHỮ HOA
  • Bỏ phần RAO (tiểu đoạn 10 của phần Khái niệm) chỉ nên tập sau cùng
  • Tập câu 1 trước
  • Kế đến tập câu 4 (vì câu 1 và 4 gần giống nhau và chỉ có 16 nhịp)
  • Sau đó thì theo thứ tự câu 2, 3, 5 và 6.
  • Cuối cùng tập RAO
  • Phần Tóm lược dùng để tra (references) khi cần.

 

DÀN BÀI:

 

Không kể lời mở đầu và cách đọc, loạt bài này có thể được chia ra làm 3 phần chánh.

 

A) KHÁI NIỆM CĂN BẢN VÀ NHẠC CỤ CỦA LOẠT BÀI NÀY

 

1/ Lục Huyền Cầm

2/ Cần đàn có phím lõm

3/ Dây đàn

4/ Cách so giây đàn

5/ Ðặc điểm giây đàn sau khi so

6/ Notes nhạc vọng cổ so với nhạc Tây phương

7/ CÁC ÐIỄM CĂN BẢN ÐỂ ÐỌC KÝ ÂM TRONG LOẠT BÀI NÀY

8/ Ký âm 6 câu vọng cổ CĂN BẢN

9/ Chiều dài của 6 câu vọng cổ

10/ RAO: (định nghĩa, cách dùng và ký âm một bài rao căn bản)

11/ NHỒI: (định nghĩa, cách dùng và ký âm 3 kiểu nhồi)

12/ SONG LANG (SL trong bài)

 

 

B) PHẦN LÝ THUYẾT VÀ THÍ DỤ CHO MỖI CÂU VỌNG CỔ

 

VỌNG CỔ CÂU 1:

chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca

bài hát thí dụ: Xuân trong mùa Ðông

[mp3 solo lục huyền cầm] [mp3 bài hát thí dụ] [mp3 RAO + Câu VC1]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi cần

 

VỌNG CỔ CÂU 2:

(chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca)

bài hát thí dụ 1 : Xuân trong mùa Ðông (giống câu 1 và 4, chỉ chuyển đổi vài lời ca)

bài hát thí dụ 2 : Mới có hai năm (kỷ niệm DÐDK 2 tuổi)

[mp3 solo lục huyền cầm] [mp3 bài hát thí dụ]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi cần

 

VỌNG CỔ CÂU 3: gồm có 2 cách đàn

1. Câu 3

2. Câu 3 XANG

(chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca)

bài hát thí dụ: Buồn Viễn Xứ

[mp3 solo lục huyền cầm] [mp3 bài hát thí dụ]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi cần

 

VỌNG CỔ CÂU 4:

(chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca)

bài hát thí dụ 1 : Xuân trong mùa Ðông (giống câu 1 và 2, chỉ chuyển đổi vài lời ca)

bài hát thí dụ 2 : Tiễn Em

[mp3 solo lục huyền cầm RAO và câu 4] [mp3 bài hát thí dụ]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi cần

 

VỌNG CỔ CÂU 5:

(chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca)

bài hát thí dụ: Một Ðóa Hoa Quỳnh

[mp3 solo lục huyền cầm] [mp3 bài hát thí dụ]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi cần

 

VỌNG CỔ CÂU 6:

(chi tiết căn bản và các notes chánh, bài ký âm, cách đặt lời ca)

bài hát thí dụ: Ðôi Lời Với Quỳnh Hoa

[mp3 solo lục huyền cầm] [mp3 bài hát thí dụ]

các ghi chú bằng chữ nghiêng để giải thích sự biến đổi khi

 

 

 

 

 

C) TÓM LƯỢC VỀ 6 CÂU VỌNG CỔ (GIỌNG NAM)

 

  1. Bảng cấu trúc căn bản.
  2. Những điểm đặc biệt của những câu vọng cổ
  3. Tóm tắt đặc điểm 6 câu Vọng cổ áp dụng cho lời ca

 

3A) TỔNG QUÁT TỪNG "NOTE":

3A1/ HÒ

3A2/ XÊ

3A3/XANG

3A4/XỀ

3A5/CỐNG

 

3B) ÁP DỤNG CHO TỪNG CÂU VỌNG CỔ :

3B1/Câu 1

3B2/Câu 2

3B3/Câu 3

3B4/Câu 4

3B5/Câu 5

3B6/Câu 6

 

  1. Trình diễn
  2. Bài ca Vọng cổ mẫu " Cô Hàng Cà-phê" của soạn giả Viễn Châu
  3. Các bài đọc thêm về lịch sử 6 câu vọng cổ (sẽ được update thường xuyên)

 

 

 

 

 

 

A) KHÁI NIỆM CĂN BẢN VÀ NHẠC CỤ CỦA LOẠT BÀI NÀY

 

 

 

1/ Lục Huyền Cầm: Trong loạt bài này chỉ đề cập đến cây Lục Huyền Cầm.

 

Lục Huyền Cầm hay Ghi-ta Việt Nam, Ghi-ta phím lõm, Ghi-ta Vọng cổ hoặc Ghi-ta cải lương là cây đàn được cải biến từ đàn Tây Ban Cầm (guitare espagnole moderne), phát sinh ra từ vùng Ðất Nam bộ Việt- Nam.

 

Guitare là nhạc khí dây gãy có dọc (cần đàn), có bàn phím lõm khuyết sâu vào dọc.

 

(hình 1)

 

Chữ Lục Huyền Cầm là tên theo cây đàn gốc này. Vì đúng như tên gọi, đàn có tất cả 6 giây.

Nhưng khi chuyển qua dùng cho cổ nhạc thì không cần giây 6 (MI thấp), do đó đàn tuy vẫn được gọi như vậy nhưng chỉ còn có... 5 giây.

 

2/ Cần đàn có phím lõm:

 

Ngoài ra Cổ nhạc VN láy và rung... rất nhiều nên các phím đàn phải được đào khoét lõm xuống để nhạc sĩ có thể "nhấn". Nếu giữ nguyên như Tây Ban Cầm thì "vuốt" sẽ không kịp để tạo âm hưởng này! Dầu cho làm kịp thì lại rất dể đứt tay! Mà có làm được như vậy cũng không thể tạo ra âm thanh phong phú bằng cách nhấn này.

 

Các bạn có thể mua 1 cây đàn cũ và dùng dũa tròn hay dũa có một mặt tròn để dũa các phím. Phím sẽ mòn dần và thành hình gần như bán nguyệt, sâu độ 1 cm là vừa (xem hình 1). Nếu sâu quá thì cần đàn sẽ bị yếu đi, lúc đó khi căng giây sẽ bị cong từ từ vì sức kéo của giây và sẽ làm lạc giọng rất dể dàng!

 

Khi mua đàn cũ nên để ý xem sau khi lên giây, cần đàn còn thẳng hay không? Có loại cần đàn được dán ghép một thanh gổ mỏng loại rất cứng ở giữa, suốt dọc cần đàn, để chịu sức căng cho khỏi bị cong với thời gian. Vì nếu làm toàn bằng gổ cứng này thì đàn sẽ rất nặng nề. Khi dủa loại cần đàn này phải để ý chổ gổ "mềm hơn" sẽ bị mòn lẹ hơn, do đó phải để ý cầm dũa cho thẳng để được mòn đều. Vì chỉ làm được 1 lần, nếu bị sai thì... đành phải tìm mua đàn khác!

 

3/ Dây đàn: tùy theo ý thích có thể căn cứ theo sau mà chọn lựa

 

  • Trên căn bản phải dùng giây kim loại, 3 giây đầu (1, 2, 3) có thể là giây MI để cho dể "nhấn". Thân đàn vừa phải, cần đàn cũng vậy. Không thể dùng guitare classique với giây ni-lông được.

 

  • Nếu dây mảnh (fine) thì dây 1 (MI), dây 2 và 3 (SI)
  • Nếu dây cực mảnh (ultra fine) thì dây 1 (MI), dây 2 (SI) và dây 3 (SOL).
  • Ðiều quan trọng là làm sao cho dễ nhấn dây mà không bị lạc giọng.

 

  • THEO CỞ GIÂY ÐÀN: lúc bắt đầu để cho dể đàn nên dùng:
    • giây 1 : giây .008
    • giây 2 : giây .010
    • giây 3-4 : giây .021
    • giây 5 : giây .030

 

4/ Cách so giây đàn: bắt đầu nên so giây dưới diapason 1 bán âm (demi-ton). Vì căng quá thì khó nhấn, giây dùng quá thì note sẽ lạc.

 

  • Giây 2 bấm bậc thứ 5 sẽ cùng âm với giây 1 (mi = XÊ)
  • Giây 3 bấm bậc thứ 7 sẽ cùng âm với giây 2 (si = XỰ)
  • Giây 4 bấm bậc thứ 7 sẽ cùng âm với giây 3 (mi = XÊ)
  • Giây 5 bấm bậc thứ 5 sẽ cùng âm với giây 4 (la = HÒ)

 

5/ Ðặc điểm giây đàn sau khi so:

 

Giây 1, 3, 5 khi buông đồng âm (Mi =XÊ) cách nhau bằng octaves.

 

6/ Notes nhạc vọng cổ so với nhạc Tây phương:

 

Giây "kép" (giọng nam) khác giây "đào" (giọng nữ):

 

Giây kép (Nam)

XỰ

XANG

CỐNG

 

La

Si

Re

Mi

Fa#

Giây đào (Nữ)

XỰ

XANG

CỐNG

 

Mi

Fa#

La

Si

Do#

 

Ðặc điểm: Âm trình giữa HÒ-XỰ (Mi-Fa#) và XÊ-CỐNG (Si-Do#) là 1 "âm" (ton) khác với âm nhạc Tây phương là 1 "bán âm" (demi-ton). Âm giai này gọi là "ngũ cung", không có "demi-ton" và cũng không có "tam trình" (tierce)

 

Trong loạt bài đầu tiên này chỉ nói đến 6 câu vọng cổ giọng nam.

 

7/ CÁC ÐIỂM CĂN BẢN ÐỂ ÐỌC KÝ ÂM TRONG LOẠT BÀI NÀY:

  • Các notes nào cần phải nhấn để rung sẽ có dấu hiệu "làn sóng" ngay phía trên note.
  • Note nhạc được ký âm theo qui uớc quốc tế (conventionnal) do đó có thể tự học trên Computer (chép lại vào 1 software nào có thể playback). Dĩ nhiên Computer không phát được những âm do sự vừa nhấn từ 1/4 tới 1/2 phím vừa rung (trill).

Ví dụ : XANG (Ré) , nhấn cho đến khi nghe phát ra âm Mi, "mùi" hơn là Mi bình thường.

  • Mỗi note trong bảng ký âm đều có đánh số như sau, để dù không quen vẫn có thể ấn trúng note:
    • SỐ CÓ KHOANH TRÒN: để chỉ GIÂY số mấy (1, 2, 3, 4, 5)
    • SỐ KHÔNG CÓ khoanh tròn: để chỉ BẬC PHÍM trên cần đàn (Từ 0 đến 17)

 

8/ Ký âm 6 câu vọng cổ "CĂN BẢN": Các câu vọng cổ được ký âm trong loạt bài này có thể được gọi là 6 câu "vọng cổ căn bản". Ðiều này có nghĩa là các notes nhạc của bài vọng cổ này không có kiểu cách "bay bướm" (fantaisie) như các tay đàn nhà nghề. Dĩ nhiên sau khi biết rành rẽ các câu căn bản, với thời gian, năng khiếu và... sự tìm cách bắt chước, ai cũng có thể tạo ra cách đàn bay bướm riêng biệt cho mình.

 

9/ Chiều dài của 6 câu vọng cổ:

 

Theo ngữ vựng cổ nhạc thì mỗi câu vọng cổ có 32 "nhịp". Khi ký âm theo nhạc lý Tây phương thì tương đương với 32 trường canh (32 mesures).

 

Ðể thống nhất trong bài này chúng tôi xử dụng các định nghĩa như sau:

 

Mesure (trường canh) sẽ được gọi là "NHỊP" như cổ nhạc. Như nói ở trên, bài Vọng Cổ mỗi câu có 32 nhịp theo nghĩa này. Và mỗi nhịp như vậy sẽ có 4 phách.

 

Riêng câu 1 và câu 4 thì từ nhịp 1 đến nhịp 15 được thay thế bằng phần RAO.

 

10/ RAO: Thí dụ như bắt đầu câu 1 VC là "nói lối" hoặc ngâm sa mạc (hoặc ca tân nhạc) tức là phần ad. lib, trong lúc đó thì nhạc sĩ cũng ad. lib, gọi là "RAO". Khi ca sĩ bắt đầu "vô" thì đàn ngưng lại và bắt đầu lúc xuống HÒ, cùng 1 lúc ăn khớp với nhau thì thính giả bắt hứng, sẽ vỗ tay khen thưởng.

Do đó ký âm câu Vọng Cổ 1 từ nhịp 16 trở đi. Phần "RAO" được viết riêng sau đây (lúc học thường được dạy sau cùng, sau khi đã hoàn tất các câu Vọng Cổ).

 

Vì câu 1, như thí dụ nói trên, và câu 4 đặc biệt chỉ có từ nhịp 16, cho nên phần đầu của 2 câu này (từ nhịp 1 cho tới 15) có thể RAO. RAO là đàn "ad. lib" trong lúc đó ca sĩ "nói lối" cho tới nhịp 16 thì "vô" cùng một lúc vào HÒ.

 

Phần RAO có thể đàn 1 đoạn ngắn hay dài tùy theo cảm hứng. Sau đây chỉ là một đoạn rao căn bản. Các bạn có thể tự sáng tạo riêng cho mình một thể cách riêng. Chúng tôi sẽ thêm những thể cách khó khăn hơn về sau khi có dịp. Người nhạc sĩ (danh từ khi xưa gọi là "thầy đờn") càng nhiều kinh nghiệm càng RAO rất hay. Vì là ad. lib nên sự chế biến thật muôn hình vạn trạng.

 

[ký âm 1 cách Rao]

 

[mp3 solo guitar RAO & VC1 nam] [mp3 solo guitar RAO & VC4 nam]

11/ NHỒI: Sau khi ca sĩ vô chử HÒ (nhịp 16) cùng với nhạc sĩ, khi khán giả vỗ tay và sân khấu phực đèn màu, thì nhạc sĩ sẽ NHỒI.

 

Về phương diện kỷ thuật, nhồi có vài đặc điểm sau đây mà chúng ta cần phải biết:

 

11a) Có nhiều chọn lựa cách nhồi tùy theo sở thích như các thí dụ dưới đây:

 

 

11b) Nhồi là tận cùng của 1 câu và cũng là trường canh bắt đầu của câu kế tiếp (trường canh chung)

 

11c) Tùy theo cách nhồi nhanh hay chậm mà sẽ quyết định tempo nhanh hay chậm để ca sĩ theo đó mà ca.

 

11d) Cũng có khi đi thẳng từ câu này qua câu khác mà không cần nhồi (sẽ đề cập về sau này)

 

12/ SONG LANG: Ðây là 1 nhạc cụ gõ gồm 2 bộ phận chính bằng gỗ:

  • một cái mõ có công dụng gần như cái mõ tụng kinh nhưng dẹp hơn, ở giữa có khoét hình lòng máng, để nằm dưới đất,
  • bộ phận để gõ là cục gỗ tròn như viên bi sẽ thay thế cái đầu dùi để gõ vào mõ này.

 

Hai bộ phận được nối liền với nhau bằng 1 cái lưỡi gà (thanh lò xo bằng sắt) hình chử U nằm ngang, mỗi đầu chữ U được gắn vào 1 bộ phận kể trên. Khi muốn "đánh" hay "nhịp" song lang (SL), nhạc công đạp bàn chân lên trên lưỡi gà để đánh xuống và ta nghe như một tiếng mõ: "cốc". (hình 1)

 

B) PHẦN LÝ THUYẾT VÀ THÍ DỤ CHO MỖI CÂU VỌNG CỔ

 

VỌNG CỔ CÂU 1:

 

Cấu trúc:

(HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XANG 28, CỐNG 32)

 

Nhịp 16 & 20 là cặp: HÒ-HÒ.

Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền (như câu 1, 2, 4, 5) vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả rất... mùi !

Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note: XÊ

 

Câu 1 chỉ có 16 nhịp và trước nhịp 16 thường là ngâm thơ, nói lối, tân nhạc v.v... trong lúc đó thì nhạc sĩ cũng ad. lib, gọi là "RAO". Khi ca sĩ bắt đầu "vô" thì đàn ngưng lại đến đúng nhịp 16 thì cả hai bên, người hát lẫn người đàn phải vào cùng 1 lúc đúng ngay chổ "note" HÒ. Do đó ký âm bài này được bắt đầu từ nhịp 16 HÒ. Phần RAO được nói trong 1 phần riêng (xem lại phần đầu KHÁI NIỆM, tiểu đoạn 10).

Sau phần ngâm ad. lib lúc ca sĩ "vô vọng cổ" xuống chữ HÒ thì nhạc sĩ phải "NHỒI" (xem lại phần đầu KHÁI NIỆM, tiểu đoạn 11).

 

Lời ca:

 

  • TRUỚC HÒ 16 thuờng là ngâm sa mạc, nói lối hoặc tân nhạc. Thông thuờng là 4 câu văn hoặc có thể dài hơn.
  • HÒ 16-20 ÐI LIỀN nhau, luôn luôn dấu HUYỀN
  • HÒ 20 chỉ có MỘT câu văn (lời ca) mà thôi, bởi vì khi ca-nhạc-sĩ cùng vào 1 lúc ở nhịp 16 nghe rất mùi ,khán giả có thì giờ vổ tay. Ca sĩ có thì giờ lấy hơi... (lời ca những nhịp khác có HAI câu văn)
  • XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu,
  • XANG 32 không dấu,
  • XANG 28 dấu gì cũng được, không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG.
  • CỐNG 32 ở câu 1 phải là vần trắc

 

[ký âm câu VC1 nam]

 

[mp3 solo guitar VC1 nam] [mp3 solo guitar RAO & VC1 nam]

 

 

MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC1:

(HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XANG 28, CỐNG 32)

 

Xuân trong mùa Ðông

[mp3 vc1 Xuân Trong Mùa Ðông]

 

(Ngâm/nói ad lib) Chàng ơi... trời hôm nay sao thiệt lạnh lẽo

Nhưng sao em không cảm thấy lòng đông gíá

Có phải chăng vì hồn em đang được sưởi ấm bởi tình chàng... (HÒ 16 vào tempo)

Từ thuở nào năm ấy em (đã) biết chàng (HÒ 20)

Xuân đi, Hè đến, Thu về, Ðông tới

Em vẫn thường nghĩ đến chàng luôn (XÊ 24)

Lòng em vẫn chan-chứa mối sầu vương

Chàng đã mang lại tình yêu và nguồn sinh khí (XANG 28)

Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện

Mối tình ta chỉ có không gian chứng kiến. (CỐNG 32)

 

T.N. Ðàm Giang

31/12/2001

 

Bài thí dụ trên đây có hình thức của câu 1 vọng cổ, nhưng chỉ cần hoán chuyển câu cuối là có thể hát thành câu 2 (xem bài Vọng Cổ câu 2 Nam tới đây)

 

... Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện

Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình ta. (XANG 32)

 

 

VỌNG CỔ CÂU 2

 

Cấu trúc:

(XỀ 4, XANG 8, XANG 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XÊ 28, XANG 32)

 

Câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp).

Thường thường và dễ ca nhất là bắt đầu vào ở nhịp 16 nếu lời ca ngắn. Nếu lời ca dài thì bắt đầu ở nhịp 8, 10, 12... v.v.. (đầu, giữa hoặc cuối câu).

Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền như câu 1, 2, 4, 5 vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả rất... mùi !

 

Lời ca:

 

  • Từ XỀ 4 cho đến XANG 12: nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng.
  • HÒ 16 và HÒ 20 ÐI LIỀN nhau nên cấu trúc lời ca giống như câu 1 kể từ nhịp 16.
  • HÒ 16-20 luôn luôn dấu HUYỀN
  • XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu,
  • XÊ 28 dấu gì cũng được.
  • XANG 32 không dấu.

 

[ký âm câu VC2 nam p1] [ký âm câu VC2 nam p2] [mp3 solo guitar VC2 nam]

HAI THÍ DỤ CHO CÂU VC2:

(HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XÊ 28, XANG 32)

 

TD1: Xuân trong mùa Ðông (Ðàm Giang 31/12/2001)

 

(Ngâm/nói ad lib) Chàng ơi... trời hôm nay sao thiệt lạnh lẽo

Nhưng sao em không cảm thấy lòng đông giá

 

Có phải chăng vì hồn em đang được sưởi ấm bởi tình chàng... (HÒ 16 vào tempo)

Từ thuở nào năm ấy em (đã) biết chàng (HÒ 20)

 

Xuân đi, Hè đến, Thu về, Ðông tới

Em vẫn thường nghĩ đến chàng luôn (XÊ 24)

Lòng em vẫn chan-chứa mối sầu vương

Chàng đã mang lại tình yêu và nguồn sinh khí (XANG 28)

Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện

Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình ta. (XANG 32)

 

Một điểm nữa đáng chú ý ở đây là nếu chữ cuối của câu chót tận cùng bằng HÒ 32, thì câu hát sẽ thành vọng cổ câu 4, hoặc bằng XỀ 32 thì sẽ hát thành câu 5.

 

Câu 4: "Xuân trong mùa Ðông":

Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện

Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình mình (HÒ 32) (note LA)

 

Câu 5: "Một đóa hoa Quỳnh"

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn ta quay quắt một kiếp người (XỀ 32) (note Mi)

 

TD 2 : Diễn Ðàn Dược Khoa: Mới có Hai Năm.

[mp3 DDDK2nam]

 

Thấm thoát đã hai năm ròng rã

Từ ngôi nhà đơn sơ, góp ý Dược

Tình đồng nghiệp chúng ta người dân nước Việt

Năm Châu bốn bể, chẳng hề phân biệt

Cùng chung lưng sát cánh lên đường (HÒ 16)

Nay đà vững tuổi, vừa chẵn hai năm trường (HÒ 20)

Con thuyền Dược trên con đường lướt sóng

Ðôi ba lần cũng gặp phải phong ba (XÊ 24)

Có thử thách mới tôi luyện tấm lòng ta

Có sóng gió dạ can trường mới tỏ (XÊ 28)

Mừng diễn đàn chúng ta cùng chung sức

Những ngày Xuân đang náo nức chung vui (XANG 32)

 

T.N. Ðàm Giang

2/24/2002

 

 

VỌNG CỔ CÂU 3

 

Cấu trúc:

(XỀ 4, XANG 8, XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, CỐNG 24 (SL), XÊ/XANG 28, HÒ 32)

 

Ðặc biệt cho câu 3 vọng cổ chúng ta thấy NHỊP 28 có thể là XÊ hoặc XANG, lời ca không thay đổi. Phần đầu không có chi thay đổi. Nhạc có thay đổi từ nhịp 25 trở đi.

 

Câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp).

Nhịp 16 & 20 là cặp CỐNG-XANG.

Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note CỐNG. (Nhịp 24 song lang luôn luôn tận cùng bằng 3 notes : XÊ , CỐNG , XỆ)

Câu Vọng cổ kết thúc ở nhịp 32 bằng note HÒ. (Câu Vọng cổ kết thúc ở nhịp 32 gồm 4 notes chính : CỐNG, XANG, XỀ, HÒ)

 

Lời ca:

 

  • Câu 3 thuờng lời ca khá dài nên ca-sĩ thuờng vào ở đầu, giữa hoặc cuối nhịp 8, 10, 12... v.v... Nếu lời ca ngắn vẫn có thể vào ở nhịp CỐNG 16 .
  • Từ XỀ 4 cho đến NHỊP 12 (XANG, HÒ): nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng.
  • XANG/XÊ 28 dấu gì cũng được. (XÊ và XANG trong nhịp 20 và 28 không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG.)

(XÊ 28 giọng Nam, XANG 28 giọng Nữ lời ca vẫn không thay đổi, vì note XANG (RÉ) luôn luôn được nhấn xuống trên phím đàn cho đến khi nghe ra được note XÊ (MI), thì mới hay và lả lướt, đó là note duy nhất mà Computer không diễn đạt được. Tuy nhiên khi hòa tấu, để đơn giản hóa, mọi nhạc cụ thường chơi XÊ 28.)

  • Ðặc biệt CỐNG 16 không nhất thiết phải là vần trắc, dễ ca nhất là không dấu.
  • CỐNG 24 (SL):KHÔNG DẤU vì vậy câu 3 giọng ca "ngang-ngang", khó ca, ca sĩ phải có trình độ!
  • HÒ 32 phải là dấu HUYỀN

 

[ký âm câu 3 XÊ trang 1] [ký âm câu 3 XÊ trang 2]

 

[ký âm câu 3 XANG phần thay đổi từ nhịp 25]

 

[mp3 solo guitar VC3 nam XÊ] [mp3 solo guitar VC3 nam XANG]

 

MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC3:

(XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, CỐNG 24, XANG 28, HÒ 32)

 

Buồn Viễn Xứ

[mp3 Buồn Viễn Xứ]

 

Thấm thoắt đã hơn hăm sáu năm trường

Ngày tàn thu chợt buồn nhớ cố hương (XANG 12)

Non sông cách trở nào có xá chi nghìn trùng,

Nhớ nhà, nhớ nước vẫn một lòng son sắt (CỐNG 16)

Cũng chỉ tại những con đường khác biệt

Như trời trăng mưa nắng, đá vàng thau (XANG 20)

Khiến ta lang thang nơi đất khách từ thuở đó

Chẳng hề quên mối thâm tình cố quận thân yêu (CỐNG 24)

Nhớ thương quê nhà hai mùa mưa nắng

Có đàn em thơ và mẹ già trông ngóng đợi chờ (XANG 28)

Ôi ngày đêm khắc khoải tình viễn xứ

Ngàn dặm sơn khê vẫn nhỏ lệ mong ngày về (HÒ 32)

 

T.N. Ðàm Giang

4/24/2002

 

VỌNG CỔ CÂU 4

Vì câu 1 và câu 4 vọng cổ rất giống nhau nên sau câu 1 ta có thể tìm hiểu ngay câu 4.

 

Cấu trúc:

(HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XANG 28, HÒ 32)

 

Câu 4 cũng như câu 1 bắt đầu ở nhịp 16, vì trước nhịp 16 thường là ngâm thơ, nói lối, tân nhạc v.v...

Nhịp 16 & 20 là cặp: HÒ-HÒ.

Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền (như câu 1, 2, 4, 5) vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả rất... mùi !

Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note: XÊ

 

Lời ca: Cách trình diễn và luật bằng trắc áp dụng giống y như Câu 1

 

  • TRUỚC HÒ 16 thuờng là ngâm sa mạc, nói lối hoặc tân nhạc .Thuờng là 4 câu văn hoặc có thể dài hơn.
  • HÒ 16-20 ÐI LIỀN nhau, luôn luôn dấu HUYỀN
  • XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu,
  • XANG 28 dấu gì cũng được.
  • HÒ 32: luôn luôn dấu HUYỀN (HÒ 32 của câu 6 là note HÒ DUY NHẤT KHÔNG DẤU)

 

[ký âm câu VC4 nam]

 

[mp3 solo guitar RAO & VC4 nam]

 

TÓM TẮT CẤU TẠO và ÂM LUẬT CÂU 1 và CÂU 4:

 

Câu 1: HÒ(16) HÒ(20) XÊ(24) XANG (28) CỐNG (32)

Câu 4: HÒ(16) HÒ(20) XÊ(24) XANG (28) HÒ (32)

 

chỉ khác nhau 1 note ở NHỊP 32 : CỐNG/HÒ

 

 

HAI THÍ DỤ CHO CÂU VC4:

(HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XANG 28, HÒ 32)

 

TD1: Xuân trong mùa Ðông

[mp3 VC4 Xuan Trong Mùa Ðông]

 

Chàng ơi... trời hôm nay sao lạnh lẽo

Nhưng sao em không cảm thấy lòng đông giá

Có phải chăng vì hồn em đang được sưởi ấm bởi tình chàng... (HÒ 16)

Từ thuở nào năm ấy em đã biết chàng (HÒ 20)

Xuân đi, Hè đến, Thu về, Ðông tới

Em vẫn thường nghĩ đến chàng luôn (XÊ 24)

Lòng em vẫn chan-chứa mối sầu vương

Chàng đã mang lại tình yêu và nguồn sinh khí (XANG 28)

Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện

Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình mình (HÒ 32)

 

T.N. Ðàm Giang

 

TD2: Tiễn Em

[mp3 vc4 Tiễn Em]

 

Tiễn Em

 

Êm ái xuôi giòng nước vẫn trôi

Nụ hôn như còn đọng trên môi

Em đã xa rồi, trăng nhớ bóng

Mình anh hiu quạnh nỗi đơn côi...

Ngày em giã từ anh không đưa tiễn đuợc

Nên đêm nay nhìn trăng khuya lạnh

Anh đứng đây tuởng chừng phi cơ cất cánh

khuất dần trong khói trắng suơng mờ (Hò 16)

Phải chăng anh nhớ em và vẫn đợi chờ (Hò 20)

Em có quay đầu tìm nguời ở lại?

Hay vội vàng nhấc mớ hành trang? (Xê 24)

Làm sao chúc em thượng lộ bình an?

Anh nghe buồn dâng lên trong hồn bất ổn (Xang 28)

Anh chỉ biết thẫn thờ cúi mặt

Để cố ngăn buông một tiếng thở dài (Hò 32)

Sóng Việt

6/06/2002

VỌNG CỔ CÂU 5

 

Cấu trúc:

(XỀ 4, HÒ 8, HÒ 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XÊ hoặc XANG 28, XỀ 32)

 

Câu 5 cũng như các câu vọng cổ bắt đầu là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp).

Nhịp 16 & 20 là 2 cặp: HÒ-HÒ.

Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note: XÊ

Kết thúc ở nhịp 32 bằng XỀ.

 

Lời ca: Luật bằng, trắc áp dụng y như câu 1 từ HÒ 16 cho đến XÊ/XANG 28.

 

  • Từ XỀ 4 cho đến NHỊP 12 (XANG, HÒ): nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng. Thường thường và dễ ca nhất là bắt đầu vào ở nhịp 16 nếu lời ca ngắn. Ca-nhạc-sĩ cùng vào ở nhịp 16 .
  • HÒ 16-20: luôn luôn dấu HUYỀN
  • XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu,
  • XANG/XÊ 28 dấu gì cũng được. (XÊ và XANG trong nhịp 20 và 28 không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG)

(XÊ 28 giọng Nam, XANG 28 giọng Nữ lời ca vẫn không thay đổi, vì note XANG (RÉ) luôn luôn được nhấn xuống trên phím đàn cho đến khi nghe ra được note XÊ (MI), thì mới hay và lả lướt, đó là note duy nhất mà Computer không diễn đạt được. Tuy nhiên khi hòa tấu, để đơn giản hóa, mọi nhạc cụ thường chơi XÊ 28.)

  • XỀ 32 câu 5 phải là dấu HUYỀN. Ðây là note Mi dòng thứ 5 của "portée", khác với dấu HUYỀN của note HÒ (note LA diapason / espace giữa portée 3 và 4).

 

[ký âm câu VC5 nam p1] [ký âm câu VC5 nam p2]

 

[mp3 solo guitar VC5 nam]

 

MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC5:

(XỀ 4, HÒ 8, HÒ 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XANG/XÊ 28, XỀ 32)

 

Một Ðóa Hoa Quỳnh

[mp3 Một Ðoá Hoa Quỳnh]

 

Trời vào đêm trong trăng mờ huyền ảo

Ðâu đó mơ hồ thoảng tiếng nhạc thiết tha,

Tao nhân thanh thản một chung trà thơm ngát

Ðang chờ mong nàng tiên nữ giáng trần (HÒ 16)

Hương ngạt ngào hoa chỉ nở một lần (HÒ 20 )

Ðắm lòng nguời Quỳnh hoa phô muôn sắc

Ðêm chưa tàn sao đã vội chia tay? (XÊ 24)

Quỳnh ơi, mặc lời than đời Quỳnh ngắn ngủi,

Ta tự hỏi chắc gì Quỳnh đà tiếc nuối (XÊ 28)

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn ta quay quắt một kiếp nguời. (XỀ 32)

T.N. Ðàm Giang

5/27/2002

 

VỌNG CỔ CÂU 6

 

Cấu trúc:

(XỀ 4, XÊ 8, XANG 12, CỐNG 16, XÊ/XANG 20, XỀ 24 (SL), XÊ 28, HÒ 32)

 

Câu 6 cũng như các câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp).

Nhịp 16 & 20 là 2 cặp: CỐNG-XANG.

Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note XÊ.

Kết thúc ở nhịp 32 bằng HÒ

 

Lời ca:

 

  • Từ XỀ 4 cho đến NHỊP 12 (XANG, HÒ): nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng. Nếu lời ca dài thì bắt đầu ở nhịp 8, 10, 12... v.v
  • CỐNG 16 luật bằng trắc không quan trọng, dễ ca nhất là không dấu.
  • XANG 20 dấu gì cũng được.
  • XỀ 24 (SL) câu 6 phải là dấu HUYỀN. (giống XỀ 32 của câu 5)

Chú ý: đây là Song-Lang DUY NHẤT có dấu HUYỀN trong 6 câu Vọng-cổ. Những Song Lang nhịp 24 của các câu khác LUÔN LUÔN KHÔNG CÓ DẤU !!!

  • XÊ 28 dấu gì cũng được.
  • HÒ 32 note HÒ DUY NHẤT trong 6 câu vọng cổ KHÔNG CÓ DẤU .

 

[ký âm câu VC6 nam p1] [ký âm câu VC6 nam p2]

 

[mp3 solo guitar VC6 nam]

 

MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC6:

(XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, XỀ 24, XÊ 28, HÒ 32)

 

Ðôi Lời Với Quỳnh Hoa

[mp3 Ðôi Lời Với Quỳnh Hoa]

Trời vào đêm trong trăng mờ huyền ảo,

Ðâu đó mơ hồ thoảng tiếng nhạc thiết tha. (XANG 12)

Tao nhân thanh thản một chung trà thơm ngát,

Ðang chờ mong nàng tiên nữ giáng trần... (CỐNG 16)

Ðắm lòng nguời Quỳnh hoa phô muôn sắc.

Huơng ngạt ngào cõi mộng ru hồn ta. (XANG 20)

Nhưng đời hoa sao bất công ngắn ngủi.

Ai ngắm Quỳnh không luống những ngậm ngùi. (XỀ 24)

Quỳnh ơi ,mặc lời than đời Quỳnh ngắn ngủi,

Ta tự hỏi chắc gì Quỳnh đà tiếc nuốỉ (XÊ 28)

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt,

Phải chăng Quỳnh đã sống trọn vẹn hơn ta (HÒ 32)

 

T.N. Ðàm-Giang

 

C) TÓM LƯỢC VỀ 6 CÂU VỌNG CỔ (GIỌNG NAM)

 

[mp3 tất cả 6 câu VC do Cam Văn Công trình bày]

 

1-Bảng cấu trúc căn bản.

 

CÂU 1

 

 

 

HÒ 16

HÒ 20

XÊ 24

XANG 28

CỐNG 32

CÂU 2

XỀ 4

XANG 8

XANG 12

HÒ 16

HÒ 20

XÊ 24

XÊ 28

XANG 32

CÂU 3

XỀ 4

XANG 8

XANG 12

CỐNG 16

XANG 20

CỐNG 24

XANG/XÊ 28

HÒ 32

CÂU 4

 

 

 

HÒ 16

HÒ 20

XÊ 24

XANG 28

HÒ 32

CÂU 5

XỀ 4

HÒ 8

HÒ 12

HÒ 16

HÒ 20

XÊ 24

XANG/XÊ 28

XỀ 32

CÂU 6

XỀ 4

XÊ 8

XANG 12

CỐNG 16

XANG/XÊ 20

XÊ 24

XÊ 28

HÒ 32

 

 

Nhìn vào bảng cấu trúc chúng ta thấy 4 điểm đặc biệt :

 

1- Câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp).

2- Nhịp 16 & 20 chỉ có 2 cặp : HÒ-HÒ và CỐNG-XANG.

3- Nhịp 24 (SL) luôn luôn tận cùng bằng 3 notes : XÊ, CỐNG, XỆ

4- 6 câu Vọng cổ kết thúc ở nhịp 32 gồm 4 notes chính : CỐNG, XANG, XỀ, HÒ

 

2-Những điểm đặc biệt của những câu vọng cổ:

 

  • Câu 1 và câu 4 bắt đầu ở nhịp 16, vì trước nhịp 16 thường là ngâm thơ, nói lối, tân nhạc v.v...
  • Thường thường và dễ ca nhất là bắt đầu vào ở nhịp 16 nếu lời ca ngắn. Ví dụ: câu 1, 2, 4, và 5.
  • Nếu lời ca dài thì bắt đầu ở nhịp 8, 10, 12... v.v... (đầu, giữa hoặc cuối câu). Ví dụ: câu 3 và 6.
  • Trong 6 câu vọng cổ những nhịp quan-trọng là nhịp 16, nhịp 24 (Song-lang), nhịp 32.
  • Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền như câu 1, 2, 4, 5 vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả rất... mùi !

 

3-Tóm tắt đặc điểm 6 câu Vọng cổ áp dụng cho lời ca

 

3A) TỔNG QUÁT TỪNG NỐT:

 

Từ XỀ 4 cho đến NHỊP 12 (XANG, HÒ): nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng.

Các notes HÒ, XÊ, XANG, XỀ, CỐNG ở vị trí khác nhau: 16, 20, 24, 28, 32 tuân theo luật bằng trắc khác nhau như sau đây:

 

3A1/ HÒ

HÒ 16-20-32: luôn luôn dấu HUYỀN (note LA diapason)

HÒ 32 của câu 6 là note HÒ DUY NHẤT KHÔNG DẤU .

 

3A2/ XÊ

XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu,

XÊ 20-28 dấu gì cũng được.

 

3A3/ XANG

XANG 32 không dấu,

XANG 20-28 dấu gì cũng được.

 

XÊ và XANG trong nhịp 20 và 28 không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG.

(XÊ 28 giọng Nam, XANG 28 giọng Nữ lời ca vẫn không thay đổi, vì note XANG (RÉ) luôn luôn được nhấn xuống trên phím đàn cho đến khi nghe ra được note XÊ (MI), thì mới hay và lả lướt, đó là note duy nhất mà Computer không diễn đạt được. Tuy nhiên khi hòa tấu, để đơn giản hóa, mọi nhạc cụ thường chơi XÊ 28.)

 

3A4/ XỀ

XỀ 32 câu 5 và XỀ 24 (SL) câu 6 đều là dấu HUYỀN.

 

Từ ngữ XUỐNG XỀ (theo Ông Cam-Văn-Công):

Hai notes XỀ rất đặc biệt nằm ở nhịp 32 (câu 5) và nhịp 24 (câu 6) .

 

Lời ca có dấu HUYỀN đi XUỐNG rất đặc biệt khác với dấu huyền của HÒ (note LA/diapason/giọng kép).

 

Thí dụ 1: Nhịp XỀ 32 trong Vọng Cổ câu 5 "Một Ðóa Hoa Quỳnh"

 

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt

Còn hơn ta quay quắt một kiếp nguời. (XỀ 32)

 

Thí dụ 2: Nhịp XỀ 24 trong Vọng Cổ câu 6 "Ðôi lời với Hoa Quỳnh":

 

Nhưng đời hoa sao bất công ngắn ngủi

Ai ngắm Quỳnh không luống những ngậm ngùi (XỀ 24)

[Ghi chú: XỀ là note Mi nằm trên dòng duới cùng của "PORTEÉ"].

 

3A5/CỐNG

CỐNG 32 ở câu 1 phải là vần trắc (ví dụ: chứng kiến, dĩ vãng)

CỐNG 16 luật bằng trắc không quan trọng, dễ ca nhất là không dấu

CỐNG 24 (Song-lang) của câu 3 luôn luôn KHÔNG dấu.

 

Thí dụ: câu 3 Vọng cổ "Buồn Viễn Xứ":

 

Khiến ta lang thang nơi đất khách từ thuở đó

Chẳng hề quên mối thâm tình cố quận thân yêu (CỐNG 24)

 

 

3B) ÁP DỤNG CHO TỪNG CÂU VỌNG CỔ :

 

Lời ca lý tuởng nhất là LỤC BÁT. Nếu kẹt, câu dài nhất nên giới hạn khoảng 9-10 chữ để lời ca đuợc rõ ràng, sáng sủa, ca-sĩ khỏi hấp tấp...

Chỉ có NHỊP 16, NHỊP 24 và NHỊP 32 lời ca phải theo luật bằng, trắc.

Những nhịp khác có thể du di.

3B1/Câu 1

HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XANG 28, CỐNG 32 .

Chú ý: HÒ 16 và HÒ 20 ÐI LIỀN nhau.

 

a) HÒ phải là dấu huyền .TRUỚC HÒ 16 thuờng là ngâm sa mạc, nói lối hoặc tân nhạc... Thuờng là 4 câu văn hoặc có thể dài hơn.

b) HÒ 20 chỉ có MỘT câu văn (lời ca) mà thôi, bởi vì khi ca-nhạc-sĩ cùng vào 1 lúc ở nhịp 16 nghe rất mùi, khán giả có thì giờ vổ tay. Ca sĩ có thì giờ lấy hơi... (lời ca những nhịp khác có HAI câu văn).

 

c) XÊ 24 (SL) KHÔNG DẤU (ví dụ: đôi chân, anh, em...)

d) CỐNG 32 Phải là vần trắc (ví dụ: dĩ vãng, chứng kiến)

3B2/Câu 2

XỀ 4, XANG 8, XANG 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XÊ 28, XANG 32

HÒ 16 và HÒ 20 ÐI LIỀN nhau nên cấu trúc lời ca giống như câu 1 kể từ nhịp 16 .(XÊ 4, XANG 8 ,XANG 12: nhạc đệm )

a) HÒ 16, HÒ 20 phải là dấu HUYỀN.

 

b) XÊ 24 (SL) và XANG 32: KHÔNG DẤU .

3B3/Câu 3

XỀ 4, XANG 8, XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, CỐNG 24 (SL), XANG 28, HÒ 32

a) Ðặc biệt CỐNG 16 không nhất thiết phải là vần trắc, dễ ca nhất là không dấu.

 

CỐNG 24 (SL): KHÔNG DẤU vì vậy câu 3 giọng ca "ngang-ngang", khó ca, ca sĩ phải có trình độ!

b) Câu 3 thuờng lời ca khá dài nên ca-sĩ thuờng vào ở đầu, giữa hoặc cuối nhịp 8, 10, 12... v.v... Nếu lời ca ngắn vẫn có thể vào ở nhịp CỐNG 16 .

c) HÒ 32 phải là dấu HUYỀN (nhịp 20 & 28 dấu gì cũng đuợc)

3B4/Câu 4

HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XANG 28, HÒ 32

Cách trình diễn và luật bằng trắc áp dụng giống y như Câu 1

3B5/Câu 5

XỀ 4, HÒ 8, HÒ 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XÊ hoặc XANG 28, XỀ 32

a) Ca-nhạc-sĩ cùng vào ở nhịp 16 .(xề 4, HÒ 8 & 12: nhạc đệm)

 

b) Luật bằng, trắc áp dụng y như câu 1 từ HÒ 16 cho đến XÊ/XANG 28.

 

c) XỀ 32: Phải là dấu HUYỀN (note Mi dòng thứ 5 của "porteé"). Khác với dấu HUYỀN của note HÒ (note LA diapason / espace giữa portée 3 và 4).

3B6/Câu 6

XỀ 4, XÊ 8, XANG 12, CỐNG 16, XÊ/XANG 20, XỀ 24 (SL), XÊ 28, HÒ 32

 

a) Ðặc biệt XỀ 24 ( SL) dấu HUYỀN, giống XỀ 32 của câu 5.

 

Chú ý : đây là Song-Lang DUY NHẤT có dấu HUYỀN trong 6 câu Vọng-cổ

Những SL nhịp 24 của các câu khác LUÔN LUÔN KHÔNG CÓ DẤU !!!

 

b) CỐNG 16 không nhất thiết là vần trắc, tốt nhất và dễ xoay xở là KHÔNG DẤU.

 

c) HÒ 32 note HÒ DUY NHẤT trong 6 câu vọng cổ KHÔNG CÓ DẤU .

(ví dụ : Phải chăng Quỳnh đã sống trọn vẹn hơn TA)

 

4-Trình diễn

 

  • 6 câu liên tục hoặc 2 câu, 3 câu, 4 câu, 5 câu tùy khung cảnh, tùy truờng hợp.
  • Ðôi khi một câu, ca diễu cho vui... thuờng thì 4 câu 1, 2, 5, 6 đuợc ưa thích nhất (vì câu 4 giống câu 1 và câu 3 khó ca)
  • Câu ngắn: ca-nhạc-sĩ cùng vào ở nhịp 16, cho câu nào cũng đuợc
  • Câu dài: vào ở đầu, giữa, cuối v.v... các nhịp 8, 10, 12, 14 v.v...
  • Khi HÒ 16 và HÒ 20 đi liền nhau : CHỈ CÓ MỘT CÂU LỜI CA của 20 . Nếu NHỊP 16 và NHỊP 20 không phải là HÒ thì nhịp 20 cũng phải có 2 câu lời ca như mọi nhịp khác.

 

5-Bài ca Vọng cổ mẫu " Cô Hàng Cà-phê"

của soạn giả Viễn Châu do TNDG ghi chép. Bài này chỉ có 4 câu: câu 1, 2 , 5 và 6.

 

Cô Hàng Cà-phê

[mp3 Cô Hàng Cà-phê]

 

1-

Thơ

Gió thổi tơi bời xác lá bay

Mưa rơi từng giọt mái hiên ngoài

Em ngồi lẳng lặng bên khung cửa,

Hướng nẻo chân trời để nhớ ai.

 

1-Nhưng qua lớp khói thuốc bay bay

sao nụ cười tươi hôm nay không còn trông thấy nữa,

mà chỉ thấy đôi mi mờ hoen ngấn lệ,

hai vai như mang nặng trĩu mối ưu phiền (HÒ 16)

tôi lặng nhìn cô mà trí não mơ màng (HÒ 20)

từng giọt cà phê nhẹ rơi tí tách

như giọt lệ huyền rơi rụng xuống hồn ai (XÊ 24)

gió trở chiều rồi mà tôi vẫn ngồi đây

để nghe tâm tư nặng trĩu những ưu phiền (XANG 28)

một buổi chiều nơi quán nhỏ cô đơn

em khóc tình duyên còn tôi sầu dĩ vãng (CỐNG 32)

 

2-

Cô quán ơi cô buồn chi mà tiếng cười tắt lịm

trong một chiều mưa nơi quán lạnh bên đường (HÒ 16)

quán vắng đìu hiu lá úa rụng quanh thềm (HÒ 20)

tôi như lữ khách trên đường phiêu lãng

dừng bước giang hồ ghé lại quán hàng em (XÊ 24)

thả mộng hồn theo khói thuốc mông lung

để cho lòng ray rức não nùng theo tiếng nhạc (XÊ 28)

nhìn ly cà phê rơi rơi từng giọt

như ngấn lệ sầu thánh thót đọng vào tim (XANG 32)

 

5-

Thơ

Chiều xuống lâu rồi, mưa vẫn tuôn

Ngoài kia phố thị hắt hiu buồn

Tôi nghe rười rượi hồn du tử

Không kẻ mong chờ cũng nhớ thương

 

5-Có phải mái tóc em bay

mà dư hương đã quyện lấy hồn tôi trong một chiều lá đổ

tách cà phê rơi rơi từng giọt đắng

như lòng ai trĩu nặng mối u hoài (HÒ 16)

quán lá xơ rơ gió tạt mái hiên ngoài (HÒ 20)

tôi khẽ đưa tay lau dòng nước mắt

chẳng biết tại tro tàn hay giọt lệ khóc thương ai (XÊ 24)

Tâm sự cô hàng chắc cũng cay đắng như tôi

kẻ lắm gian truân người nhiều khổ lụy (XÊ 28)

giữa một chiều mưa gặp nhau nơi quán nhỏ

rồi chia tay không một tiếng tạ từ (XỀ 32)

 

6-

Ngoài kia trời đã ngớt cơn mưa

cô quán vẫn ngồi đó với đôi mi ướt lệ (XANG 12)

có phải tim ai đó đã bao lần rạn vỡ

không bếp lửa hồng sưởi lạnh giữa hoàng hôn (CỐNG 16)

tôi muốn một lần được nắm lấy tay em

để trao gởi nỗi niềm tâm sự (XANG 20)

rồi tôi sẽ cất bước dưới bầu trời mưa gió

bỏ lại sau lưng ngôi quán nhỏ bên đường( XỀ 24)

tôi ngậm ngùi nhặt xác lá vàng rơi

như nhặt lấy những mảnh hồn tan vỡ (XÊ 28)

Chiều nay cuối nẻo đô thành

Một kẻ phong trần thương một kẻ cô đơn. (HÒ 32)

 

6-Các bài đọc thêm về lịch sử 6 câu vọng cổ (T.N. Ðàm Giang)

 

A- Cội nguồn Cải Lương

 

Vọng cổ bắt nguồn từ năm 1910 khi nghệ sĩ Nguyễn Tống Triều và một nhóm nghệ sĩ đứng lên lập một ban hát nhỏ tại Mỹ Tho gồm Tư Triều (NTT) đờn kìm, Chín Quán đờn huyền, Mười Lý thổi tiêu, Bảy Vô đờn cò, cô Hai Nhiều đờn tranh, và cô Ba Đắc ca.

Đến năm 1912 thì tiếng tăm lan tới Saigon, và bắt đầu thịnh hành.

Trước đó VN chỉ có hát chèo hay hát tuồng ở Bắc phần và hát bội ở Nam phần.

Khi cải lương ra đời, cải lương có nghĩa là "Sửa đổi cho tốt hơn", (nam 1917) thì chuyện hát mỗi ngày được thay đổi và tân tiến hơn. Trình diễn cải lương phát triển rất nhanh và lên cao từ 1931, và dần tiến ra Bắc. Đề tài ban đầu thường dựa vào những tác phẩm hay lịch sử như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, Trưng Trắc Trưng nhị, hoặc phỏng theo các tuồng hát bội như Phụng Nghi Đình, xử án Bàng Quý Phi v.v...

Nhóm của ông Năm Châu được coi là Tổ cải lương hiện đại (1930)...

Nói sơ qua về âm nhạc, trong cải lương thường dùng đờn dây tơ và dây kim, không dùng kèn trống như hát bội. Có sáu nhạc khí chính là: đờn Kìm, đờn Tranh, đờn Cò, đờn Sến, Guitare, Violon, và hai cây, cây ống Sáo và cây Cuỗn (giống như cây kèn).

 

B- Lịch sử hai chữ VỌNG CỔ

 

Bài "Dạ cổ hoài lang" về sau được đổi là "Vọng cổ hoài lang" do nghệ sĩ Cao Văn Lầu sáng tạo đã chính thức biến chữ cải lương thành vọng cổ.

"Dạ Cổ Hoài Lang" ra đời được hơn nửa thế kỷ. Nó là nền móng cho nhiều thể khác nhau của vọng cổ.

Bản Vọng-Cổ lúc đầu có tên là Dạ Cổ Hoài Lang do nghệ sĩ Cao văn Lầu sáng tạo ra hồi năm 1920 (ba năm sau khi cải lương ra đời).

Ông Cao Văn Lầu lấy vợ mười năm không có con, cha mẹ bắt phải lấy vợ khác. Trong lúc buồn rầu ông tạo ra bản nhạc 20 câu (dòng) gọi là "Dạ cổ hoài lang" (đêm khua nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau đó ít lâu vợ ông thụ thai. Bản nhạc sau được đổi thành "Vọng cổ hoài lang" có nghĩa rộng hơn là trông mối tình xưa mà nhớ đến chồng.

Sau đây là nguyên thủy bài "Dạ cổ hoài lang"

 

Ký âm theo cổ nhạc bản "Dạ Cổ Hoài Lang"

(đờn dây Bắc)

  1. Hò lìu xang xê cống
  2. Líu cống líu cống xê xang
  3. Xừ xang xê hò líu cống xê xang hò
  4. Liu xế xang xự xề xang lìu hò
  5. Xừ liu xáng ũ liu cống xề
  6. Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu
  7. Hò lìu xang xang xế cống
  8. XÊ xê líu xừ, líu lĩu xừ xang
  9. Xừ xang xế, líu xê xang xư’
  10. XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang
  11. Xừ, xê líu xừ, líu cống xê, líu hò
  12. Liu xề xang xự cống xê xang lìu hò
  13. Xừ xang xừ cống xế
  14. XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang
  15. Xừ xang xề hò líu cống xế xang hò
  16. Lưu xáng xàng, xề liu xề xáng ú liu
  17. Hò xự cống xê xang hò
  18. XÊ líu xừ, líu lĩu xừ xang
  19. Xừ xang xế, hò líu cống xê xang hò
  20. Liu xáng xàng xề liu xề xáng ú liu

 

Lời bản Vọng Cổ đầu tiên của Việt Nam trong điệu Dạ Cổ Hoài Lang ca theo nhịp đôi:

 

  1. Từ là từ phu tướng
  2. Bửu kiếm sắc phong lên đàng
  3. Vào ra luống trông tin chàng
  4. Đêm năm canh mơ màng
  5. Em luống trông tin nhàn (*)
  6. Ôi, gan vàng quặn đau
  7. Đường dầu xa ong bướm
  8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
  9. Còn đêm luống trông tin bạn
  10. Ngày mòn mỏi như đá vọng phu
  11. Vọng phu vọng, luống trông tin chàng
  12. Lòng xin chớ phụ phàng
  13. Chàng hỡi, chàng có hay
  14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15. Biết bao thuở đó đây xum vầy
  16. Duyên sắt cầm đừng lạt phai
  17. Thiếp cũng nguyện cho chàng.
  18. Nguyện cho chàng hai chữ bình an
  19. Mau trở lại gia đàng
  20. Cho én nhạn hiệp đôi

 

(*) có bản chép là "Em luống trông tin chàng"

 

Theo thời gian , bản Vọng Cổ "Từ là từ phu tướng" ca giọng Bắc, nhịp đôi.

Bản nhạc thông dụng đến năm 1926 thì chuyển thành nhiều nhịp; nhịp đôi ca giọng Bắc giống điệu Hành Vân, sau tăng lên nhịp bốn, soạn giả viết nhiều lời hơn, ca sĩ kéo dài giọng ngân, và từ giọng Bắc biến thành giọng Nam pha lẫn hơi Oán.

Đầu thập niên 1940, Vọng cổ tăng lên nhịp tám. Từ nhịp tám , năm năm sau tăng lên nhịp 16. Thời này, soạn giả lồng vào bản Vọng Cổ những điệu hò, ngâm thơ Vân Tiên v.v... Mãi đến năm 1959 bản Vọng cổ mới tăng lên nhịp 32. Bản vọng cổ 32 nhịp do soạn giả Kiên Giang viết 6 câu (Hà Huy Hà tác giả bài thơ Hoa tím thôi cài trên Áo trắng) với nhan đề : "Đội Gạo Đường Xa", Hữu Phước đơn ca trên hãng đĩa Lam Sơn.

Năm 1960 Vọng cổ tăng lên 64 nhịp, tuy nhiên khi đờn nhạc sĩ bấm phím thành 128 nhịp. Thời này, soạn giả "gối đầu bản Vọng cổ " bằng Nói Lối, Ngâm Tứ Tuyệt, thơ Lục Bát, Tân Nhạc, Ngâm Tao Đàn, Ngâm Sa Mạc, Sương Chiều, Khóc Hoàng Thiên, Đảo Ngũ Cung v.v...Bản Vọng Cổ 64 nhịp của soạn giả Viễn Châu viết lần đầu tiên tựa đề "Ba Râu Đi Chợ Lớn" có tính cách trào phúng do nghệ sĩ Văn Hường thu trên hãng đĩa Hồng Hoa.

 

TNDG

(Tài liệu về nhạc lý vọng cổ viết theo cuốn "Hậu Trường Sân Khấu Cải Lương" của Trần Trung Quân nhà sách Nam Á, Paris 1993) 

 

C- Những gánh hát Cải Lương. 

 

Từ gánh hát nhỏ đầu tiên của Tư Triều (1910), sử liệu sau đó ghi chép theo thứ tự là gánh Thấy Năm Tú, Đồng Bào Nam, Tái Đồng Ban, Văn Hí ban, Sĩ Đồng Ban, Kỳ Lân Ban, Tân Phước Ban, Bác Sĩ Minh.

Sau đó là đoàn hát đợt hai: Tân Thinh, Tập Ích,Trần Đắc, Tân Hí, Vì Hí, Nhã Tính, Phước Cương, Huỳnh Kỳ, Nhạn Trắng, Mộng Vân, Sao Mai, Hề Lập, Nam Phỉ, Nam Phương, Phụng Hảo, Việt Kịch Năm Châu, Kim Thoa, Hậu Tấn.

Đợt ba cho đến năm 1975: Đoàn Nguyệt Kiều của bầu Quỳ; đoàn Hoa Sen ông Bảy Cao; đoàn Thủ Đô ông Ba Bản; đoàn Dạ Lý Hương ông bầu Xuân; Hương Mùa Thu soạn giả Thu An, Ngọc Hương; trăng Mùa Thu ông Tư Hiếu; đoàn Thái Dương bà Tiêu Thị Mai (vợ ông Tôn Ngọc Chắc, chủ rạp Quốc Thanh); đoàn Thanh Minh Thanh Nga bà bầu Thơ; đoàn Út Bạch Lan-Thành Được, đoàn Kim Chưởng cô Bảy Kim Chưởng; công ty Kim Chung (5) của ông Trần Viết Long; đoàn Thống Nhất bầu Út Trà Ôn; đoàn Thế Hệ Dũng Thanh Lâm của DTL; đoàn Hùng Cường-Bạch Tuyết; đoàn Việt Hùng-Minh Chí.

 

TNDG

 

D-Những Soạn Giả bộ môn Cải Lương/Vọng Cổ

 

Soạn giả Vọng cổ, những người có nhiều công lao nhất cho bộ môn Vọng cổ lại là những người được biết đến ít nhất, họ mang tim óc nhân lực tạo dựng những tuồng Vọng Cổ, những bài ca Vọng Cổ sâu sắc, thấm thía, mang đến khán thính giả những giây phút giải trí đáng ghi nhớ cho một vở tuồng hay.

Một số soạn giả soạn đặc biệt một vai trò, một vở tuồng cho một nghệ sĩ sân khấu, và cũng nhờ những vai trò đặc biệt này mà một nghệ sĩ được có tên tuổi gắn liền và nổi tiếng từ vai tuồng đo. Một vài thí dụ điển hình như:

Đôi Soạn Giả Hà Triều-Hoa Phượng đã tạo tuồng "Khi Hoa Anh Đào Nở" với vai Điền Sơn viết riêng cho Thành Được. Cũng nhờ vai trò hợp sở năng này và tài bẩm sinh nên nghệ sĩ Thành Được đã nổi tiếng hơn nhiều sau đó.

Soạn giả Thu An đã soạn "Hai Chiều Ly Biệt" làm Trường Xuân sáng chói trong vai Thành Cát Tư Hãn.

Soạn giả Viễn Châu đã mang một Thanh Nga lên vương miện "tài sắc vẹn toàn" qua vai Sơn Nữ Phà Ca trong tuồng "Người Vợ Không Bao giờ Cưới".

Hữu Phước có tiếng trong vai để đời Cậu Tư Kiên từ tuồng "Con gái chị Hằng", Út Trà Ôn vai ông Cò Quận chín 9, vở "Tuyệt Tình Ca" cũng soạn bởi hai soạn giả Hà Triều-Hoa Phượng.

Một số Soạn giả cận đại có tiếng trong danh sách như sau:

Hà Triều, Hoa Phượng, Viễn Châu, Mộc Linh, Ngọc Điệp, Quy Sắc, Thiếu Linh, Hoàng Khâm, Thể Hà Vân, Kiên Giang Hà Huy Hà, Loan Thảo, Yên Ba, Hoàng Thị Nguyệt, Yến Linh, Năm Châu, Lê Khanh, Duy Lân, Trọng Nguyên, Thái Thụy Phong, Kinh Luân, Nguyễn Huỳnh, Phong Anh, Trần Hà, Yên Lang.

Nói riêng về Soạn giả Viễn Châu, một số bài của ông như Xuân Đất Khách, Gánh Nước Đêm Trăng, Ông Lão chèo đò, Tình Anh Bán Chiếu, Tâm Sự Mộng Cầm, Cô Hàng Cà Phê, Lá Trầu Xanh v.v... rất được ưa chuộng. Đặc biệt bài Sầu Vương Ý Nhạc tân cổ giao duyên, SG Viễn Châu làm để tặng ông bầu Hoàng Văn Quýnh, biệt danh bầu Quýnh chủ gánh đoàn Sao Ngàn Nơi. Cuộc đời bất hạnh trong giai đoạn cuối của bầu Quýnh đã biến ông thành một ông lão mù lòa đờn dạo ở cầu Bến Lức để mưu sinh.

Một số tuồng Vọng Cổ hay trên sân khấu Việt Nam trong vài chục năm trước 1975: Tấm Lòng Của Biển, Tuyệt Tình Ca, Khi Hoa Anh Đào Nở, Người Vợ Không Bao giờ Cưới, Quân Vương và Loạn Tướng, Người Đẹp Bạch Hoa Thôn, Tiếng Trống Mê Linh, Hai Chiều Ly Biệt, Thuyền Ra Cửa Biển, Lỡ Bước Sang Ngang, Trần Minh Khố Chuối, Chuyện Tình An Lộc Sơn, Con Gái chị Hằng, Tiếng Khóc Giữa Rừng Khua, Chiều Về Trên Sông Lạnh, Tiếng Hạc Trong Trăng, Sân Khấu Về Khua, Chiều Mưa Biên Giới và còn nhiều nữa.

 

Ghi chú. Tài liệu trích dẫn từ cuốn "Hậu Trường Sân Khấu Cải Lương" của ông Trần Trung Quân (nhà sách và xuất bản Nam Á/1993).

 

TNDG

 

E- Nghệ Sĩ Cải Lương

 

* Nói đến cải lương không thể nào không nhắc đến nghệ sĩ lão thành trong ngành nghệ thuật này, đó là nghệ sĩ Út Trà Ôn, ông Út Trà Ôn qua đời hồi tháng tám năm 2001, thọ 83 tuổi.

 

Út Trà Ôn thật là Nguyễn Thành Út, sinh năm 1917 tại làng Đông Hậu, quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, ông là con trai út thứ mười. Từ đó tên Út Trà Ôn ra đời.

Những bài ca vọng cổ nổi tiếng gắn liền với tên Út Trà Ôn gồm những bài như Sầu Vương Biên Ải, Tình Anh Bán Chiếu, Gánh Nước Đêm Trăng, Thức Trót Đêm Đông, Sầu Bạn Chung Tình và Tôn Tẫn Giả Điên.

 

* Tại hải ngoại, Nghệ Sĩ Việt Hùng cũng đã từ trần .

Tôi xin nói thêm một chút về NS Việt Hùng, gánh hát Việt Hùng-Minh Chí thời thập niên 60.

Xin nhắc lại một chút về vài nhân vật trong lịch sử Vọng Cổ/Cải Lương, VC/CL xuất phát khoảng 1910 tiên phong bởi dàn nhạc của Tư Triều (Nguyễn Tống Triều) ở Mỹ Tho. Ở Mỹ Tho, hồi đó cỡ năm 1913-1914 cũng có ông Bảy Triều (Trần văn Chiều) tài nhạc giỏi hơn Tư Triều.

Năm 1918, Tây mừng thắng trận nên toàn quyền Albert Sarraut đã cho phép dân Việt được hát hò dễ dàng hơn và từ đó dần cải lương biến dần thành vọng cổ nhờ một số nghệ sĩ lập gánh hát trau giồi nghề đờn ca và đưa tài tử lên sân khấu.

Một số gánh hát được thành lập và đi lưu diễn rất nhiều vùng, nhiều tỉnh khác nhau.

NS Việt Hùng cặp bầu với NS Minh Chí thành lập gánh hát Việt Hùng-Minh Chí một thời gian nhưng không thành công nên sau đó đi hát trở lại. Thuở còn trẻ, VH thương hát bài ca "Bà Ba bán hàng có mấy người con", và tên của VH đi đôi với NN một thời gian, VH nổi tiếng với vai cậu ấm Thân trong tuồng Đoạn Tuyệt.

Cải lương/Vọng cổ là một ngành văn hóa miền Nam khó có thể mai một được và dù có toàn cầu hóa nó cũng không thể nào bị biến mất được.

NS VH đã qua đời trên đất nước tự do Mỹ quốc đã cho chúng ta một cơ hội nhắc đến ngành nghệ thuật Vọng Cổ tại hải ngoại mà nhiều người tưởng rằng nó đã bị loại bỏ dần dần.

Nếu có thì giờ tìm trên mạng lưới điện tử chứng ta sẽ ngạc nhiên khi biết được nó hiện hữu khắp nơi và mỗi ngày một nhiều hơn.

 

* Một nghệ sĩ Cải Lương khác không thể không nhắc đến ở đây là Nghệ Sĩ Thành Được. Tôi nghe tiếng người nghệ sĩ này đã mấy chục năm, nhưng mới thật sự quen biết TĐ cỡ hai năm nay sau khi TĐ đến lập nghiệp tại vùng Bắc California.

Thành Được là thần tượng của hàng triệu người trong cùng thời với anh, và dù thời gian đã nghiệt ngã lấy mất những dáng dấp trẻ trung, TĐ vẫn còn phong cách, dáng dấp của một người nghệ sĩ một thời "đẹp trai, hào hoa, giọng hát truyền cảm". Thành Được rất được bạn bè quý mến vì tính tình phóng khoáng hết lòng với bạn bè. Một trong nhiều những đam mê của TĐ, phải kể đến mê xe hơi. Qua lời của TĐ và những bạn bè của anh, TĐ đã làm chủ hơn 134 đời xe du lịch, có khi một tháng anh đổi hai chiếc xe. Bộ sưu tập xe hơi của anh gồm đủ loại như: Traction, Renault, Peugeot, Ford, Cadillac, Continental, Pontiac, Mustang, Plymouth, Chevrolet, Chrysler, Mercedes, Volkswagen, Audi, Porsche, Fiat, Toyota, Madza, Mitshubishi, Honda... Một giai thoại hồi đó về TĐ trong thời gian còn hát cho gánh Thanh Minh Thanh Nga của bà bầu Thơ. Hồi đó (thời 1964), TĐ mê đá banh quá nên quên dượt tuồng, làm cho bà bầu Thơ giận giữ, và trong một buổi trình diễn trước khán giả, bà bầu Thơ đã phải ra lệnh cho nhân viên ánh sáng tắt đèn và làm lại (để có người đứng trong cánh gà nhắc tuồng cho TĐ), và từ đó câu nói "tắt đèn làm lại" sau này được dùng rộng rãi trong quần chúng ám chỉ việc làm thiếu quang minh chánh đại của chính quyền thời 1965.

Còn rất nhiều mẩu chuyện kỳ thú về các nghệ sĩ, không thể nói hết trong một bài viết được.

 

* Nghệ Sĩ Bích Thuận

  • Sinh quán: Làng Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh.
  • Cựu giáo sư viện Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn (65- 75)
  • Chủ nhân, giám đốc đoàn Cải Lương Ca Kịch Bích Thuận từ 1955 - 1975.
  • Về điện ảnh đã đóng 10 phim dài
  • 1953 được khán thính giả và báo chí bầu là Nghệ Sĩ đẹp nhất và nhiều cảm tình nhất.
  • Ðệ Nhất Ðẳng Bội Tinh Tâm Lý Chiến 1969
  • Ðệ Nhất Ðẳng Văn Hóa Giáo Dục Bội Tinh 1971
  • Ðược vinh danh trong "Dictionary of International Biography" Cambridge, Anh Quốc 1993
  • Ðược vinh danh trong "5000 Personalities of the World" for Outstanding Contribution to the Theatrical Field, ABI, Raleigh, North Carolina 1998
  • Ðược nêu danh trong "Vẻ Vang Dân Việt", Trọng Minh tuyển tập 3, Westminster, CA, USA 1996
  • Ðược nêu danh trong "Danh Nhân Giáo Phận Bắc Ninh", L.M. Trần Phúc Long, Costa Mesa, CA USA 1998
  • Ðược vinh danh trong Công Giáo Việt Nam do Truyền Thống Văn Hóa dân tộc của Linh Mục Vũ Ðình Trác ở Orange County, 1996
  • Ðịnh cư tại Pháp từ 1983, vẫn hăng say tiếp tục phung sự Văn Hóa Nghệ Thuật Việt Nam

 

TNDG

 

Ghi chú: phần lịch sử VC viết theo tài liệu " Hồi ký 50 năm mê hát " của Vương Hồng Sển (nhà XB Phạm Quang Khai/1968)

 

 !   Dàn Bài
VỌNG CỔ

 

A) KHÁI NIỆM VÀ NHẠC CỤ

 

1/ Lục Huyền Cầm

2/ Phím lõm

3/ Dây đàn

4/ So giây đàn

5/ Ðặc điểm giây đàn

6/ So với Tây nhạc

7/ CÁCH ÐỌC KÝ ÂM

8/ VC CĂN BẢN

9/ Chiều dài câu VC

10/ RAO

11/ NHỒI

12/ SONG LANG

 

B) LÝ THUYẾT & THÍ DỤ:

C) TÓM LƯỢC

1/Cấu trúc căn bản.

2/Ðiểm đặc biệt (nhạc)

3/Ðặc điểm cho lời ca

3A)TỔNG QUÁT TỪNG "NOTE":

3A1/

3A2/

3A3/XANG
3A4/XỀ

3A5/CỐNG

3B) TỪNG CÂU VỌNG CỔ :

3B1/Câu 1

3B2/Câu 2

3B3/Câu 3

3B4/Câu 4

3B5/Câu 5

3B6/Câu 6

4/Trình diễn

5 5/Bài ca Vọng cổ mẫu

6 6/Các bài đọc thêm về lịch sử 6 câu vọng cổ.
A. Cội nguồn Cải Lương
B. Lịch sử hai chữ VỌNG CỔ
C. Những gánh hát Cải Lương
D. Những Soạn Giả
E. Nghệ Sĩ Cải Lương